Doanh nghiệp thường dựa vào người lao động và chuyên gia tư vấn độc lập để phát triển tài sản trí tuệ của mình và mặc nhiên cho rằng họ có quyền sở hữu các quyền đối với những tài sản đó theo nguyên tắc “tôi trả tiền, do đó tôi sở hữu”.

Tài sản trí tuệ có thể bao gồm: chương trình phần mềm, bài báo, kịch bản, kế hoạch và bản vẽ thiết kế, biểu tượng mới, sản phẩm hoặc quy trình mới, bao bì sản phẩm, kiểu dáng sản phẩm mới, kế hoạch kinh doanh, sáng chế và những thành quả của những nỗ lực sáng tạo khác.

Ai là người sở hữu quyền đối với sản phẩm do người lao động tạo ra: cá nhân nhà sáng tạo hay người sử dụng lao động? Câu trả lời cho câu hỏi này thường không dễ và không rõ ràng; nó có thể là rất khác nhau ở những nước khác nhau và thậm chí ngay cả trong một nước cụ thể, phụ thuộc vào pháp luật, hoàn cảnh của mối quan hệ cụ thể giữa người sử dụng lao động và người lao động. Trong bài này, chúng ta cùng nhau phân tích trong một số đối tượng cụ thể:

Ảnh: Thuvienphapluat.vn

Quyền sở hữu đối với những cải tiến về chức năng của sản phẩm (hay là sáng chế/bằng độc quyền sáng chế)

Ở nhiều nước, người sử dụng lao động sở hữu sáng chế do người làm thuê tạo ra nếu sáng chế liên quan đến hoạt động kinh doanh của người sử dụng lao động, nếu hợp đồng lao động không có quy định khác.

Ngược lại, ở các nước khác, các quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế, về nguyên tắc, sẽ thuộc quyền sở hữu của người làm thuê tạo ra sáng chế đó, nếu không có thoả thuận khác. Ở một số quốc gia (cụ thể là Hoa Kỳ), tác giả sáng chế là người làm thuê có thể có quyền đối với việc khai thác sáng chế nhưng người sử dụng lao động thường được trao quyền sử dụng không độc quyền đối với sáng chế cho những mục đích nội bộ (hay còn được gọi là “shop rights”). Tuy nhiên, các quy định đặc biệt có thể được áp dụng đối với những sáng chế của giảng viên hay nghiên cứu viên trong trường đại học như được quy định trong chính sách sở hữu trí tuệ của các tổ chức đó.

Một số nước cấp cho tác giả sáng chế là người làm thuê quyền yêu cầu trả thù lao hoặc bồi thường công bằng và hợp lý cho sáng chế của họ nếu người sử dụng lao động sử dụng các quyền đối với sáng chế đó. Những nước khác thì không quy định khoản bồi thường cho người lao động hoặc hoặc một khoản thù lao hoặc bồi thường rất hạn chế, và chỉ trong một số trường hợp ngoại lệ.

Quyền sở hữu quyền tác giả

Ở hầu hết các nước, nếu người làm thuê tạo ra một tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật trong phạm vi công việc của mình thì người sử dụng lao động mặc nhiên sở hữu quyền tác giả, trừ khi có quy định khác. Nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Theo pháp luật quyền tác giả của một số nước, không có sự chuyển giao quyền một cách mặc định và trong những vụ việc phức tạp thì các án lệ sẽ được áp dụng.

Có một vài trường hợp mà theo đó người sử dụng lao động sẽ sở hữu toàn bộ hoặc một số quyền. Ví dụ, nếu người sử dụng lao động xuất bản báo hoặc tạp chí thì người làm thuê sẽ sở hữu quyền tác giả cho một số mục đích nhất định, bao gồm việc phát hành sách, trong khi người sử dụng lao động sẽ sở hữu quyền tác giả cho những mục đích khác. Tuy nhiên, ở hầu hết các quốc gia, nếu người làm thuê tạo ra phần mềm trong quá trình làm việc thì người sử dụng lao động sẽ sở hữu các quyền đối với phần mềm đó, trừ khi có quy định khác trong hợp đồng lao động.

Cũng cần lưu ý rằng các quyền tinh thần (nghĩa là quyền yêu cầu được công nhận là tác giả của tác phẩm và quyền phản đối với những thay đổi về tác phẩm mà có thể làm tổn hại đến uy tín của tác giả), là không thể chuyển nhượng và theo đó, quyền này sẽ vẫn thuộc về tác giả ngay cả khi việc sở hữu các quyền tài sản của quyền tác giả đã được chuyển giao cho người sử dụng lao động. Tuy nhiên, ở một số nước (cụ thể là Canađa, Hoa Kỳ), các quyền nhân thân có thể bị từ chối.

Quyền sở hữu đối với kiểu dáng công nghiệp

Nhìn chung, trong trường hợp người làm thuê được yêu cầu tạo ra kiểu dáng công nghiệp theo một hợp đồng lao động thì nó sẽ thuộc về người sử dụng lao động. Tuy nhiên, ở một số quốc gia, quyền sở hữu kiểu dáng công nghiệp do người làm thuê tạo ra trong thời hạn hợp đồng lao động sẽ thuộc về người làm thuê, trừ khi có thoả thuận khác. Trong một số trường hợp, người làm thuê yêu cầu người sử dụng lao động thanh toán một khoản thù lao hợp lý có tính đến giá trị kinh tế của kiểu dáng công nghiệp đó và lợi ích bất kỳ mà người sử dụng lao động nhận được từ việc sử dụng kiểu dáng công nghiệp đó. Ở các nước khác (ví dụ, Hoa Kỳ), người tạo ra kiểu dáng công nghiệp sẽ là chủ sở hữu trừ khi họ nhận được một khoản thù lao cho kiểu dáng công nghiệp đó.

Tổng hợp: HT

 




Chia sẻ